Bài văn tế tổ nhà thờ họ Phan
Mỗi nhà thờ họ đều được thờ thủy tổ dòng họ và những người có công với cách mạng một cách trân trọng và thiêng liêng. Mỗi từ đường đều có ngày giỗ tổ hằng năm. Và vào ngày ấy , con cháu trong họ cùng nhau dâng hương bái tổ tại nhà thờ họ. Khi làm lễ, người trưởng họ đứng trước bàn thờ tổ đọc bài văn tế tổ của dòng họ đó. Dưới đây là bài văn tế tổ nhà thờ họ Phan- tại Vĩnh Lộc Bình Chánh. Với đầy đủ thủ tục uống nước nhớ nguồn thấm đẫm tinh thần đoàn kết của cả một dòng họ lâu đời.
1. Nguồn gốc dòng tộc họ Phan
Họ Phan là một thành viên lâu đời trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đã có mặt hàng ngàn năm với bao thăng trầm biến động. Cùng với trăm họ, tộc Phan đã góp công khai sơn phá thạch, mở rộng đất đai, chống lại ngoại xâm, phát huy và gìn giữ những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa văn hoá của dân tộc, giống nòi.
Các tài liệu cổ sử cũng như các truyền thuyết, tổ tiên các tộc Việt có từ cách đây khoảng gần ba ngàn năm. Họ Phan xuất hiện trên đất nước Việt Nam ngay từ thời Kinh Dương Vương với ông Phan Ðô và vào thời Vua Hùng thứ 18 với ông Phan Tây Nhạc đại vương, đều gốc ở Ái Châu (Thanh Hóa).Theo truyền thuyết vào đầu đời Nhà Chu (1066 TCN) tại một bộ tộc phía nam sông Trường Giang (Dương Tử Giang) gần hồ Phiên Dương, vùng đất Việt Thường thuộc Dương Việt (Giang Tây) có người tù trưởng giỏi nghề cấy lúa, biết lợi dụng sông ngòi, lấy nước vào ruộng, tránh được nạn hạn hán làm cho mùa màng tươi tốt, nhân dân no đủ, ai cũng mến phục. Nghe tin, vua Chu bèn mời người đó về triều giúp đỡ nhân dân cách dẫn nước vào ruộng cấy lúa nước, dần dần nhân dân sung túc, thiên hạ thái bình. Ðể đền ơn, vua Chu ban cho được hưởng ruộng lộc tức là thái điền ở bộ tộc đó và đặt tên họ ghép hai chữ thái điền với ba chấm thủy đọc là chữ “Phan”. Họ Phan bắt đầu ra đời từ đấy. Người tù trưởng đó là Tất Công họ Phan, bộ tộc Phan.
>>>Văn khấn giỗ tổ họ đầy đủ chi tiết, cập nhật mới nhất 2020
2. Bài mẫu văn tế tổ nhà thờ họ Phan
Đọc trong “LỄ GIỖ TỔ LIÊN TỘC PHAN” tại “ĐỀN THỜ TỘC PHAN”
Lời người xưa đã dạy:
Cây có cội, nước có nguồn.
Chim tìm tổ, người tìm tông.
Chim trời dẫu kiếm ăn ngàn năm cũng quay về đậu ở cành xưa.
Ong rừng dù hút mật mười phương, vẫn nhớ lại bay về tổ cũ.
Vật đã như thế,
Người há khác sao?
Nhớ ngài Thỉ Tổ Phan Tộc,
Hồng lĩnh non cao bát ngát, là nơi phát tích giống dòng.
Lam giang dài rộng mông mênh, là chốn khai sinh Phan Tộc.
Đất Bắc bộ lĩnh khí mười phần,
Trấn Thanh Hoá tinh truyền một họ.
Gặp lúc lệnh Vua Nam tiến, từ đất Bắc bờ cõi mở mang.
Nhân khi vận nước trung hưng, lập Động trị nước non giàu đẹp.
Dãi gió dầm sương mấy nỗi,
Băng sông mở lối nhiều phen.
Sức kia chém rắn phất cờ,
Chí ấy nung lòng phục hổ.
Đến miền Nam thấy non xanh nước biếc vui đẹp lòng song,
Mơ Sài thành mong con ấm cháu no, mới vừa dạ ngọc.
Phá rừng xanh thành ruộng thành nương,
Mở lối hẹp nên đường nên sá.
Nhưng Người.
Uống nước sông Miền Nam xanh trong, lòng vấn vương nhớ nước Lam giang,
Trông mây đỉnh Hải Vân trắng xoá, dạ vẫn cứ yêu mây Hồng Lĩnh.
Về quê xưa viếng thăm phần mộ, Thỉ Tổ, ngài an táng tại nơi đây.
Đến trốn mới lập định gia hương, con cháu ta phát sinh từ chốn ấy.
Đức Tổ mênh mông Đông Hải,
Chí Người vòi vọi Trường Sơn.
Dẫu không thành sử truyền văn,
Vẫn có thạch bia lưu tự.
Cấm đến nay:
Đã mấy trăm năm,
Qua bao nhiêu thế.
Con cháu khắp cả Việt Nam, tính ra đã có vạn vạn người.
Tộc họ nhiều chi, nhiều phái, ước độ có trên ngàn ngàn hộ.
Công đức ấy cháu con ghi ngọc, lễ Tổ Tiên một tấc lòng thành,
Sự nghiệp kia Tộc họ gìn vàng, câu phụng cung đôi gìong chữ khắc.
Một nén hương thơm,
Ban chung rượu lạt.
Trầm, trà, hoa quả kính dâng, lòng hậu sinh có nhật nguyệt soi tường.
Trống, chiêng, lễ, nhạc nguyện cần, Người Tiên Liệt có Xuân, thu nhớ kỹ.
Xin nguyện.
Giữ lấy lẽ ngay,
Làm theo điều phải.
Thương yêu đùm bọc, lá lành, lá rách lúc buồn vui,
Nâng đỡ viếng thăm, kẻ khó, người già sơn ấn lạnh.
Noi dấu Tiên nhân dạy bảo, chữ trung can thường khắc trong tim,
Theo đường Liệt Tổ truyền, ghi, cầu hiếu nghĩa năng soi trước mắt.
Gương sáng Tiền Hiền vằng vặc, xin gắng công xây dựng con em.
Tiếng thơm gia tộc vang lừng, nguyên ra sức vun bồi cháu chắt.
Cao Cả Thay:
Công Liệt Tổ thiên thu truyền tụng, một lời: Đâu nói được nghĩa khai sinh,
Ơn Tổ Tiên bách thế lưu phương, đôi câu: Đâu tỏ xong tình phụng dưỡng.
Nghĩ đến Trường Sơn trùng điệp, lòng cháu con đâu thẹn với người xưa;
Trông về Đông Hải mênh mông, dạ chắt chít vẫn thơm vùng cảnh cũ.
THƯỢNG HƯƠNG,
(Biên soạn, Kim An Phan Công Thưởng, Phó ban Trị sụ Hội Đồng Tộc Phan)
Kính dâng bài thơ:
MỪNG XUÂN TỘC PHAN,
Kính dâng dòng họ TỘC PHAN ta,
Hạnh phúc, an khang đến mọi nhà.
Cón, cháu, mừng Xuân, nghinh Liệt Tổ,
Rể, dâu đón Tết, cùng ông bà.
Ngàn năm công đức lưu danh mãi,
Muôn thủa nghĩa tình vang tiếng xa.
Xây dựng từ đường lưu dấu tích,
Đời đời kế nghiệp phát “Tài” đa.
Nguồn: Facebook